Chương trình nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập giai đoạn 2025 – 2030 tập trung nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập (sau đây viết tắt là tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập), xây dựng nền tảng khoa học và công nghệ vững chắc, tạo ra một số tổ chức nghiên cứu và phát triển hạt nhân làm động lực thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ. Qua đó tạo đột phá trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh quốc gia.
Đối tượng của chương trình là các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm nghiên cứu; cơ sở giáo dục đại học công lập được thành lập theo quy định của pháp luật về giáo dục đại học được xác định là đại học quốc gia, đại học trọng điểm về kỹ thuật và công nghệ theo Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 27/2/2025 của Thủ tướng Chính phủ; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Ảnh minh họa
Mục tiêu đến năm 2030, phát triển được 05 tổ chức nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, khoa học vật liệu, khoa học trái đất nằm trong nhóm 30% tổ chức được xếp hạng cao nhất theo đánh giá của các tổ chức quốc tế uy tín như SCImago Institutions Rankings (SIR) hoặc tương đương.
Phát triển được 7 - 10 tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ nằm trong nhóm 30% tổ chức được xếp hạng cao nhất theo đánh giá của các tổ chức quốc tế uy tín như SIR hoặc tương đương, đảm nhận được vai trò dẫn dắt trong nghiên cứu phục vụ phát triển công nghệ nền tảng, công nghệ chiến lược.
Phát triển được 4 tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn xuất sắc, giữ vai trò chủ chốt, làm nòng cốt cho việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong đó có ít nhất 1 tổ chức được đánh giá ngang tầm khu vực và thế giới.
Đến năm 2030, xây dựng và duy trì được đội ngũ nghiên cứu với ít nhất 30 nghiên cứu viên (không bao gồm viên chức nghiên cứu hưởng lương từ ngân sách nhà nước) gồm: người lao động theo hợp đồng làm công tác nghiên cứu, cộng tác viên khoa học và công nghệ (trực tiếp hoặc trực tuyến), nghiên cứu sinh, học viên cao học trong và ngoài nước, trong đó có tối thiểu 15% là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài.
Đối với nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, khoa học vật liệu, khoa học trái đất, mỗi tổ chức được triển khai nâng cao năng lực đạt được kết quả như sau:
Hàng năm, số lượng bài báo khoa học được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc danh mục Web of Science/Scopus/Scimago Q1, Q2 của mỗi tổ chức tăng trung bình 15% - 20%. Tới năm 2030, hiệu suất công bố đạt tối thiểu 1,5 bài báo quốc tế uy tín/tiến sĩ/năm.
Đối với lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ, mỗi viện nghiên cứu (hoặc tổ chức tương đương) được triển khai nâng cao năng lực đạt được kết quả như sau:
Hàng năm, số lượng bài báo khoa học được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc danh mục Web of Science/Scopus/Scimago Q1, Q2 của mỗi tổ chức tăng trung bình 12%. Tới năm 2030, hiệu suất công bố đạt tối thiểu 1,1 bài báo quốc tế uy tín/tiến sĩ/năm;
Có số lượng văn bằng bảo hộ sáng chế (bằng độc quyền sáng chế, bằng độc quyền giải pháp hữu ích) tăng trung bình 15%/năm; đồng thời tăng dần số sáng chế được bảo hộ ở nước ngoài. Tới năm 2030, hiệu suất tạo ra bằng sáng chế, giải pháp hữu ích, giống cây trồng mới, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đạt bình quân tối thiểu 0,2 văn bằng bảo hộ/tiến sĩ/năm;
100% tổ chức được triển khai nâng cao năng lực từ chương trình làm chủ quy trình thiết kế, tích hợp để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh đối với công nghệ nền tảng, công nghệ chiến lược thuộc lĩnh vực chuyên môn;
Hàng năm có ít nhất 2 kết quả/sản phẩm khoa học và công nghệ được chuyển giao/ứng dụng vào thực tiễn.
Đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, mỗi tổ chức được triển khai nâng cao năng lực đạt được kết quả như sau:
Hàng năm, cung cấp ít nhất 10 báo cáo tư vấn chính sách phục vụ công tác xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật hoặc giải pháp phát triển xã hội cho trung ương, địa phương, trong đó có tối thiểu 1 báo cáo được các cơ quan của Đảng và Nhà nước tham khảo, sử dụng làm luận cứ trong ban hành văn kiện, văn bản quy phạm pháp luật, chính sách hoặc 1 mô hình được triển khai thử nghiệm trong thực tiễn;
Hàng năm, số lượng công trình công bố quốc tế uy tín của mỗi tổ chức tăng trung bình 12% (bài báo khoa học, sách, chương sách xuất bản ở các tạp chí, nhà xuất bản quốc tế uy tín trong danh mục Web of Science/Scopus/Scimago); tới năm 2030, hiệu suất công bố đạt tối thiểu 1,0 bài báo quốc tế uy tín/tiến sĩ/năm.
Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, chương trình đã đưa ra 6 nhiệm vụ, giải pháp gồm: xây dựng một số tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển trở thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc ngang tầm khu vực và thế giới; phát triển đột phá hạ tầng khoa học và công nghệ; thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo trên các lĩnh vực ưu tiên; triển khai hoạt động đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực khoa học và công nghệ; truyền thông và lan tỏa kết quả thực hiện chương trình.
Chương trình cũng nêu rõ lộ trình thực hiện và trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ này.