Ngày 16/9, tại Hà Nội, Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD) thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Chương trình chia sẻ về phát triển bền vững lần thứ 8 với chủ đề: “Tăng cường quản trị, bảo tồn tài nguyên nước vì mục tiêu phát triển bền vững và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu”.
Phát biểu khai mạc sự kiện, ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch VCCI, Chủ tịch VBCSD nhấn mạnh, nước chính là mạch máu của nền kinh tế và đời sống xã hội, từ nông nghiệp, công nghiệp đến sinh hoạt và dịch vụ. Không có nước sạch, mọi nỗ lực phát triển bền vững đều bị đe dọa. Nước sạch cũng là chìa khóa thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững số 6 (nước sạch), số 12 (tiêu dùng – sản xuất bền vững) và số 13 (ứng phó với biến đổi khí hậu).
Theo ông Hoàng Việt, Giám đốc Chương trình nước, Tổ chức WWF-Việt Nam, ở cấp độ toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, nước không chỉ là tài nguyên thiên nhiên mà còn là nền tảng cho lương thực, năng lượng và sinh kế của hàng chục triệu người dân. Đứng trước các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, khai thác thiếu kiểm soát cũng như ô nhiễm nguồn nước từ các hoạt động của con người, chúng ta đang phải chứng kiến sự suy giảm và khan hiếm nguồn nước cùng với các rủi ro trong đảm bảo an ninh nguồn nước. Điều này đòi hỏi chúng ta cần có cách tiếp cận toàn diện hơn, khoa học hơn trong quản trị nguồn tài nguyên thiết yếu này của cuộc sống.

Nước không chỉ là tài nguyên thiên nhiên mà còn là nền tảng cho lương thực, năng lượng và sinh kế của hàng chục triệu người dân. (Ảnh minh họa)
Ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục quản lý tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, hiện cả nước có khoảng 3.450 con sông có chiều dài trên 10 km trở lên với tổng lượng nước trung bình nhiều năm đạt 935,9 tỷ m³/năm, trong đó 60% đến từ ngoài lãnh thổ. Nguồn nước lại phân bố không đều theo không gian và thời gian: mùa cạn kéo dài tới 7 – 9 tháng nhưng chỉ chiếm 28% tổng dòng chảy, gây khó khăn lớn cho sản xuất và sinh hoạt.
Theo ông Nguyễn Minh Khuyến, chúng ta đã và đang đứng trước những thách thức để quản lý, bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước. Đó là áp lực phát triển kinh tế - xã hội khiến nhu cầu nước tăng nhanh chóng. Bình quân trong vòng 50 năm qua, nhu cầu nước đã tăng gấp 3 lần do sự gia tăng dân số, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị hóa. Dự báo đến năm 2030, nhu cầu sử dụng nước cho các ngành khoảng 122,47 tỷ m3/năm, đến năm 2050 khoảng 131,7 tỷ m3/năm.
Đồng thời, ô nhiễm nguồn nước gia tăng. Sự phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa nhanh, các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp gia tăng kéo theo các hoạt động xả nước thải, nhất là nước thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn xả vào nguồn nước… đã và đang tác động, gây sức ép ngày càng lớn, nghiêm trọng đến cả số lượng và chất lượng nguồn nước các sông, suối, các tầng chứa nước.
Cùng với đó là mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước gia tăng. Những mâu thuẫn chủ yếu liên quan đến lợi ích kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực, giữa thượng lưu và hạ lưu các lưu vực sông; giữa nhu cầu dùng nước cho thủy điện với thủy lợi và nhu cầu cho công nghiệp, sinh hoạt và sản xuất ở hạ du các lưu vực sông,...
Trong khi đó, hiệu quả khai thác, sử dụng nước trong các ngành còn thấp và lãng phí, đặc biệt là sử dụng nước cho nông nghiệp và tại các đô thị…
Việt Nam hiện chưa có hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định phục vụ xây dựng kịch bản nguồn nước, điều hòa, phân phối tài nguyên nước thống nhất trên lưu vực sông để điều phối hoạt động khai thác, sử dụng nước của các ngành, các địa phương dẫn đến tình trạng sử dụng nước lãng phí, hiệu quả sử dụng không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu về an ninh nước sạch, an ninh lương thực và an ninh năng lượng, ông Nguyễn Minh Khuyến chia sẻ.
Ông cũng cho rằng, việc đầu tư tài chính ngành nước thời gian qua tuy được quan tâm nhưng vẫn đang thiếu so với nhu cầu. Việc bố trí nguồn lực còn chưa tương xứng và mất cân đối giữa các ngành.
Để bảo vệ tài nguyên nước, đảm bảo an ninh nguồn nước, ông Nguyễn Minh Khuyến cho biết, trong bối cảnh nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng, trong khi nguồn lực ngân sách Nhà nước còn hạn chế, việc huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào công tác bảo tồn và khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước là hết sức cấp thiết. Sự tham gia của khu vực tư nhân sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ cấp nước, xử lý nước thải, giám sát và phục hồi nguồn nước.
Ông đề xuất ban hành khung pháp lý riêng cho PPP trong lĩnh vực tài nguyên nước; quy định rõ trách nhiệm, chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước – doanh nghiệp – cộng đồng.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế ưu tiên đối với các lĩnh vực hợp tác về tài nguyên nước: đầu tư nhà máy xử lý nước thải đô thị, làng nghề; phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; phục hồi rừng đầu nguồn; xây dựng, vận hành các hệ thống: quan trắc, dự báo về tài nguyên nước; thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước; hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định phục vụ điều hòa, phân phối tài nguyên nước.
Cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp như: điều chỉnh giá dịch vụ nước theo thị trường, ưu đãi thuế, tín dụng xanh… nhằm khuyến khích đầu tư bảo vệ nguồn nước.