Ngày 27/8, tại Hà Nội, Bộ Công Thương phối hợp với Trung tâm nhiên liệu xanh toàn cầu, Hiệp hội Nhiên liệu sinh học Việt Nam tổ chức hội thảo "Phát triển nhiên liệu sinh học trong thời kỳ mới – những nhiệm vụ trọng tâm để kiến tạo tương lai nhiên liệu bền vững cho Việt Nam".
Phát biểu tại hội thảo, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh hóa để ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và bảo đảm an ninh năng lượng là xu thế tất yếu. Trong bối cảnh đó, nhiên liệu sinh học được coi là giải pháp chiến lược, không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà còn gia tăng giá trị cho nông nghiệp, thúc đẩy ngành công nghiệp mới và mở ra cơ hội phát triển kinh tế xanh.
Việt Nam có nhiều tiềm năng để tham gia xu thế này nhờ lợi thế về nguồn nguyên liệu sẵn có, đồng thời đã xác định rõ định hướng phát triển nhiên liệu sinh học trong Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, gắn với mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 theo tinh thần Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại hội thảo
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, thực tế, xăng sinh học E10 đã bắt đầu được cung cấp thí điểm tại Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng và bước đầu ghi nhận sự quan tâm tích cực từ người tiêu dùng. Các doanh nghiệp đầu mối như Petrolimex, PVOIL, Sài Gòn Petro… đã sẵn sàng về hạ tầng phối trộn và phân phối, bảo đảm cung ứng xăng E10 đồng bộ từ ngày 1/1/2026 trên phạm vi cả nước.
Tại hội thảo, các đại biểu đã trao đổi về những cơ hội và thách thức trong phát triển nhiên liệu sinh học tại Việt Nam. Các tham luận tập trung vào nhiều vấn đề then chốt như xu hướng sử dụng nhiên liệu xanh trên thế giới, khả năng mở rộng vùng nguyên liệu, nâng công suất sản xuất ethanol trong nước, bảo đảm sự tương thích của xăng sinh học với động cơ phương tiện, kinh nghiệm triển khai thành công từ các quốc gia đi trước, cũng như chính sách khuyến khích, hỗ trợ thị trường. Các đại biểu cũng đánh giá tích cực về tiềm năng phát triển công nghiệp nhiên liệu sinh học của Việt Nam, dựa trên nguồn nguyên liệu dồi dào từ sắn, ngô, mía đường và sinh khối.
TS. Đào Duy Anh, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) chia sẻ, Bộ Công Thương đã xác định rõ lộ trình: từ năm 2026, Việt Nam sẽ bắt buộc áp dụng xăng E10 trên toàn quốc, ngoại trừ một số lĩnh vực đặc thù như quốc phòng, an ninh hay hàng không. Sau năm 2030, Bộ sẽ nghiên cứu nâng tỷ lệ phối trộn lên E15 hoặc E20 tùy điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, năng lực sản xuất và an ninh năng lượng.
Để triển khai định hướng này, Bộ Công Thương giao Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công làm đầu mối hướng dẫn phối trộn, sửa đổi quy chuẩn kỹ thuật, đồng thời thúc đẩy nghiên cứu thế hệ nhiên liệu sinh học mới và tăng cường hợp tác quốc tế. Cục Quản lý thị trường trong nước sẽ xây dựng chính sách giá, thuế, phí, kiểm tra và giám sát phân phối. Trong khi đó, UBND các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm phát triển vùng nguyên liệu và hạ tầng sản xuất, phân phối tại địa phương. Doanh nghiệp phải chủ động khởi động lại các dự án ethanol, đảm bảo tuân thủ tỉ lệ phối trộn theo quy định và chịu chế tài nếu vi phạm.

Xăng sinh học E10 đã bắt đầu được cung cấp thí điểm tại Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng
Theo ông Đỗ Văn Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội Nhiên liệu sinh học Việt Nam, nhu cầu ethanol sẽ tăng nhanh khi chương trình E10 được triển khai trên toàn quốc, buộc các doanh nghiệp vừa phải nâng cao năng lực sản xuất trong nước vừa tính tới phương án nhập khẩu để tránh đứt gãy nguồn cung.
Ông Đỗ Văn Tuấn cho rằng, hạ tầng phân phối hiện có đã đủ điều kiện để triển khai E10, chỉ cần điều chỉnh nhỏ ở khâu kỹ thuật. Giá ethanol trong nhiều năm qua cũng thấp hơn xăng khoáng, nhờ đó E10 có thể góp phần ổn định giá bán lẻ, hỗ trợ kiểm soát lạm phát.
Không chỉ mang lại lợi ích về môi trường, nhiên liệu sinh học còn tạo cơ hội cho nông nghiệp Việt Nam. Với hơn 500.000 ha sắn, sản lượng trên 10 triệu tấn/năm, ngành ethanol sẽ tạo đầu ra ổn định, giảm phụ thuộc vào xuất khẩu tiểu ngạch, giúp nông dân yên tâm sản xuất. Các nhà máy ethanol cũng đang cải tiến công nghệ để tận dụng phụ phẩm như CO₂ lỏng, dầu fusel, DDGS phục vụ chăn nuôi, qua đó giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh. Theo ông Đỗ Văn Tuấn, ethanol nội địa hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với nhập khẩu và chỉ phải nhập bổ sung khi sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu.